Thuyền độc mộc trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số Bắc Tây Nguyên
Giữa dòng sông Đăk Bla mênh mông
nước dâng tràn, hai bên bờ cỏ cây xanh ngắt, chiếc thuyền độc mộc lặng
lẽ trôi, duyên dáng, êm xuôi như một chiếc lá mùa thu.
Thuyền độc mộc có từ bao giờ và ai
là người sáng tạo ra loại phương tiên độc đáo này? Chẳng ai nhớ được,
chỉ biết rằng thuyền độc mộc hiện hữu trong đời sống người dân tộc thiểu
số Kon Tum như một nét chấm phá đáng yêu, vừa mang ý nghĩa thực tiễn
như một phương tiện giao thông, vừa là công trình nghệ thuật của những
nghệ nhân từ bản làng.

Bến thuyền độc mộc làng Kon Ktu
Do
cấu tạo địa hình cao nguyên nên hệ thống sông ngòi ở Kon Tum rất chằng
chịt, về mùa mưa, nước sông dâng lên ồ ạt, dốc đột ngột, nhiều xoáy
mạnh, còn mùa khô nước rút mạnh, khiến cho lòng sông hẹp, đáy nhiều đá
nhọn lởm chởm. Điều này khiến cho việc sử dụng các phương tiện giao
thông như tàu, thuyền lớn, ghe gặp nhiều khó khăn, chỉ có thuyền độc mộc
với đặc điểm nhỏ gọn, cơ động mới thích hợp với cuộc sống của bà con
dân tộc nơi đây. Với cấu tạo đơn giản nhưng thuyền độc mộc lại có sức
nâng cao, đồng thời lại bớt lực cản của nước nên việc vận chuyển những
loại hoa màu trồng được trên nương rẫy xuôi về nhà được thuận lợi. Bên
cạnh đó, để phù hợp với địa hình đồi núi nhiều sông suối thì thuyền độc
mộc cũng nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đi lại giữa làng này qua làng khác.
Có lẽ, không có hình ảnh nào đẹp hơn khi giữa một vùng sông nước Đăk
Bla bao la rộng lớn, hai bên bờ cỏ cây xanh ngắt, không khí mát lạnh, có
chiếc thuyền độc mộc lững lờ trôi trong nắng sớm cao nguyên. Tại thành
phố Kon Tum, những ngôi làng ven sông như làng Kon Klor, Kon Ktu, Plei
Tơ Nghĩa,…vẫn còn hình ảnh thuyền độc mộc neo đậu dưới bến sông êm đềm.
Mỗi khi vụ mùa vừa xong, thuyền lại đầy ắp những khoai, lúa, ngô,…được
bà con vận chuyển từ trên nương rẫy trở về nhà.
Đúng
như tên gọi của mình: “độc mộc”, thuyền được thiết kế, đục đẽo từ
nguyên thân cây lớn gỗ lớn, phổ biến nhất là gỗ sao xanh bởi loại gỗ này
nhẹ nhưng chắc chắn, ít bị mối mọt. Cấu tạo của thuyền đơn giản nhưng
việc làm ra nó cũng là một quá trình nghệ thuật đòi hỏi nhiều công sức
và tài năng của người nghệ nhân. Trước hết là việc tìm gỗ, phải đúng cây
gỗ sao, chu vi lớn hơn tay hai người ôm, thân thẳng tuột, ít cành
nhánh. Sau khi hạ cây xuống, người ta sử dụng loại cuốc chim thật sắc
bén để khoét lòng thuyền, bào nhẵn mặt bên trong và bên ngoài chiếc
thuyền, vừa đẽo, vừa đốt lửa để hong khô thân cây. Trong quá trình đẽo
thuyền, người nghệ nhân phải toàn tâm toàn ý, tập trung vào từng nhát
rìu, tỉ mỉ từng đường nét, đến khi chiếc thuyền bắt đầu có hình có dáng.
Mỗi con thuyền đối với người nghệ nhân là cả một công trình nhiều tâm
huyết, có cả sự đam mê mà lòng tin. Chiếc thuyền độc mộc thành công là
các bộ phận cân đối, hài hòa, vỏ thuyền tuy mỏng nhưng có sức chịu đựng
tốt với việc các con sóng đánh ập vào. Nếu như thuyền làm ra không giữ
được thế cân bằng thì khi di chuyển dễ bị nứt, toác dần ra đến không sử
dụng được. Khi con thuyền đã hoàn thành và hạ thủy an toàn thì người dân
mới tiến hành cúng Yàng để tạ ơn. Lễ vật cho mỗi lễ cúng đơn giản cũng
phải con gà, ghè rượu...dân làng cùng góp mặt, ca hát, uống rượu mừng
làng có chiếc thuyền mới. Người thợ làm thuyền sẽ được gia chủ mời rượu
trước tất cả mọi người như một phần thưởng và sự tôn vinh tài năng...
Trước đây, nhà nào đẽo được thuyền độc mộc lớn là nhà đó có của ăn của
để và được dân làng quí trọng, tin cẩn. Thuyền chỉ được dành cho con
trai cả hoặc người chủ nhà - là những người có sức khoẻ, có kinh nghiệm
về sông nước trong gia đình, trong buôn làng.

Thuyền độc mộc trên sông Đăk Bla
Nhưng
rồi theo thời gian, rừng càng ngày càng lùi xa, gỗ lớn làm thuyền ngày
càng khó tìm nên việc làm thuyền cũng trở nên hiếm hoi. Thêm vào đó là
sự xuất hiện của những phương tiện giao thông hiện đại và thuận lợi
khiến cho thuyền độc mộc vắng bóng trên những dòng sông, nghệ thuật làm
thuyền độc mộc ngày dần mai một. Tại các huyện có địa hình sông nước
chẳng chịt như Sa Thầy, Kon Rẫy, Đăk Tô ngày càng khó để tìm thấy bóng
dáng mảnh mai, duyên dáng của thuyền độc mộc trên những dòng sông.
Để
gìn giữ nét văn hóa đặc sắc này, hàng năm, trong dịp Tết Nguyên đán,
người Kon Tum lại tổ chức hội đua thuyền độc mộc trên dòng Đăk Bla hùng
vĩ, đây là ngày hội, là dịp để người dân các làng giao lưu, kết thân bè
bạn với nhau. Ngay từ sáng sớm hàng ngàn người dân tập trung dọc hai bên
bờ kè sông Đăk Bla để cùng theo dõi giải đua thuyền độc mộc truyền
thống, đây không đơn thuần là một cuộc đua có giải thưởng mà còn là hoạt
động văn hóa giữ gìn nét sinh hoạt truyền thống của người dân Bắc Tây
Nguyên. Cuộc đua thường được bắt đầu từ 7g sáng, với 9 đội tham dự, đại
diện cho các huyện, thành phố đến tranh tài. Mỗi đội lại gồm nhiều chiếc
thuyền, và trên mỗi thuyền có hai người, mặc trang phục chỉnh tề, chuẩn
bị tư thế sẵn sàng khi trọng tài cất tiếng còi là chèo thuyền vun vút.
Đoạn sông đua dài khoảng 3km, không khí náo nức, hàng ngàn người tập
trung cổ vũ. Thuyền chiến thắng không chỉ nhận được phần thưởng của Ban
Tổ chức mà còn được sự ngưỡng mộ của nhiều người dân. Gần đây nhất là
giải đua thuyền độc mộc truyền thống 2013 trên sông Đăk Bla có sự tham
dự của 41 thuyền, với 82 vận động viên của 9 xã, phường ven sông. Do
lượng nước trên sông Đăk Bla xuống thấp nhất trong 37 năm qua, nên một
số đoạn đua mái chèo chạm cát, ảnh hưởng rất nhiều đến chuyên môn và
chiến thuật thi đấu của các đội. Nhờ có sự chuẩn bị tốt và là đội tham
gia đông nhất với 9 thuyền đua, đội thuyền độc mộc xã Sa Bình, huyện Sa
Thầy đã giành cả ba giải: nhất, nhì, ba cá nhân và giải nhất tập thể.

Thuyền
độc mộc hiện diện trong đời sống bà con dân tộc thiểu số Bắc Tây Nguyên
hàng trăm năm nay, cùng người dân qua những con sông lớn, lên thác
xuống ghềnh bao lần, chống chịu được những cú va đập với đá ngầm, sóng
lớn. Đây vừa là công cụ lao động gần gũi hằng ngày, lại vừa là một nét
văn hoá rất đặc sắc cần được giữ gìn trong đời sống đồng bào các dân tộc
thiểu số Kon Tum.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét